Xét về thành phần hóa học, trong rau ngổ chủ yếu là nước (trên 90%), còn lại là chút protein, xơ, tro, chất khoáng vi lượng và vi chất sinh tố (B, C…). Các hoạt chất được y học hiện đại chú ý đến nhất là tinh dầu, chủ yếu là limonene, aldehyd perilla, monoterpenoid cetone, và cis-4-caranone, ngoài ra còn có các nhóm hợp chất coumarine và flavonoid có tác dụng kháng viêm và kháng khuẩn, chống oxi hóa.
Theo Đông y, rau ngổ có vị cay, thơm, hơi chát, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, chỉ khái, giải độc, tiêu thũng, trừ viêm, chống sưng, giảm đau, sát trùng đường ruột, làm thuốc lợi tiểu, trị sỏi thận, sốt nóng, chống lão hóa, ngừa ung thư… trị thủy thũng, viêm kết mạc, phong chẩn, thủy đậu, trị những cơn đau thắt bụng.
Một số tài liệu cho thấy, tại Trung Quốc, loại rau này được dùng để trị chấn thương khi té ngã và trị thủy thũng, sưng kết mạc, mụn ngoài da, rắn cắn và cam tích nơi trẻ em. Rau ngổ cũng được dùng trị các rối loạn, đau khi có kinh nguyệt, giúp sinh sữa cho sản phụ.
Ở Malaysia: lá rau này được dùng làm thuốc đắp trị đau nhức chân. Rễ và lá, sắc chung để trị nóng sốt, thông đờm khi ho. Ở Ấn Độ: toàn cây giúp sinh sữa, sát trùng; nước cốt trị nóng sốt, cho sản phụ uống khi sữa bị chua. Lá giã nhỏ đắp vết thương.
Rau Ngổ còn gọi là Ngổ Hương
20,000 ₫ 18,000 ₫
Rau ngổ, còn gọi là ngổ hương, ngổ thơm, ngổ điếc, thạch long vĩ, có tên khoa học là Limnophila chinensis thuộc họ Mã đề. Toàn thân cây rau ngổ đều có thể dùng được: lá non rau ngổ ăn sống, ăn với phở hoặc nấu canh chua. Để làm thuốc, người ta thường thu hái về rửa sạch, thái ngắn để dùng tươi hoặc phơi khô để dành.
Các nhận xét
Không có nhận xét & đánh giá nào được gửi.